Hôm nay, chúng ta sẽ thưởng thức một tác phẩm của thi sĩ Tản Đà – Bài thề non nước. Nội dung bài “Thề non nước” là lời thề giữa núi và nước, là mối tình yêu, là sự cam kết giữa núi và nước. Đồng thời qua câu chuyện giữa núi và nước, tác giả cũng muốn đề cập đến lời thề giữa hai người thương nhau. Hai người đó có thể là hai cha con, hai mẹ con, hai anh em, hai vợ chồng hay hai thầy trò. Người này thề với người kia, hứa hẹn với người kia là không bỏ người kia cho dù biển có cạn đá có mòn. Nhưng vì biến cố nào đó, họ cách xa nhau. Do cách xa, có sự trách móc và giận hờn.
- Lời hứa về một cây bút chì – Truyền cảm hứng sống
- Cơm Thầy Cơm Cô – Ngọn lửa nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng
- Hôn Nhân Trí Mạng: Gặp Gỡ Trùm Máu Lạnh!
- Review Sách Một Nửa Của 13 Là 8: Công Thức Độc Quyền Để “Sản Xuất” Ra Ý Tưởng Mới
- Review Sách: Tư Duy Pháp Lý Của Luật Sư – Mở Rộng Kỹ Năng Và Kiếm Tiền Từ Thân Chủ
Chữ “thề” trong “Thề non nước” là lời nguyền. Non là núi và nước là sông, là biển. Một điểm rất thú vị trong bút hiệu của tác giả thi phẩm: Tản Đà là từ được ghép từ hai chữ đầu của hai địa danh rất nổi tiếng ở miền Bắc – Núi Tản Viên và sông Đà Giang. Đây cũng chính là quê hương của thi sĩ. Được sinh ra, được lớn lên, được hun đúc bởi khí thiêng của sông núi nơi đây – Núi Tản, sông Đà, đã hình thành trong ông khí phách của người chí sĩ.
Hai câu đầu của bài thơ là:
“Nước non nặng một lời thề,
Nước đi, đi mãi, không về cùng non”.
Lời thề rất nặng, rất sâu. Mình đem cả trái tim để thề nguyện, để cam kết. Nhưng mà:
“Nước đi, đi mãi, không về cùng non”.
Tôi rời quê hương năm 1966, và hứa với bạn bè sẽ trở về sau ba tháng. Vậy mà đã phải ở nơi đây suốt bốn mươi năm. Đọc bài thơ này, tôi thấm lắm. Mặc dù chưa được phép về quê hương, nhưng tôi tìm cách về. Nếu không về quê hương bằng thân xác này, tôi sẽ về bằng con đường tinh thần. Tôi gửi đệ tử xuất gia cũng như đệ tử tại gia từ nhiều nước về. Sách của tôi, đĩa của tôi đã được nhiều người trong nước biết đến. Mặc dù sách, đĩa ấy chưa được phép phát hành công khai trong nước. Đó là một cách về quê hương của tôi. Mình cần nhìn mọi thứ bằng con mắt vô tướng, đừng để kẹt vào hình tướng bên ngoài. Tuy tôi chưa về quê hương bằng thân xác này, nhưng nếu nhìn cho kỹ, tôi đã về rồi.
“Nước non nặng một lời thề.”
Thế mà nước lại cứ đi hoài.
“Nước đi, đi mãi, không về cùng non.”
Trong chúng ta, nếu ai đã từng ở trong trạng thái huấn nghị, khi đọc bài này sẽ rất thấm.
“Nhớ lời “nguyện nước thề non”,
Nguyện nước thề non là một thành ngữ gốc Hán Việt, “thệ hải minh sơn”. Mình và cô nàng (mình tạm cho núi là anh chàng và nước là cô nàng) đã thề thốt rất sâu nặng với nhau, vậy mà cô nàng đi, đi hoài không chịu về.
“Nước non nặng một lời thề, Nước đi đi mãi, không về cùng non. Nhớ lời “nguyện nước thề non”, Nước đi chưa lại, non còn đứng không.”
“Non còn đứng không” tức là núi đứng chơ vơ một mình. “Nước đi chưa lại” tức là nước đi chưa về. Khứ và lai, khứ là đi, và lai là trở lại. Núi đứng một mình, và núi nói giọng trách móc.
“Nước đi chưa lại, non còn đứng không. Non cao những ngóng cùng trông,”
Mình chưa có hạnh phúc, vì mình luôn có tâm trạng chờ đợi, ngóng trông. Mình nghĩ rằng, khi nào người kia trở về, mình mới được hạnh phúc. Sự chờ đợi, ngóng trông cản trở mình tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống đang có trong giây phút hiện tại. Có thể nói, cuộc đời mình bị đánh cắp bởi những chuỗi dài đợi chờ. Thật uổng phí. Nói đến sự chờ đợi ngóng trông, người ta nghĩ ngay đến tích “Vọng phu”. Ngày xưa, có đôi vợ chồng rất yêu thương nhau. Chồng ra trận, thiếu phụ bồng con, vò võ trông chồng mỗi ngày trên bãi biển. Cuối cùng, nàng và con đã hóa đá.
“Non cao những ngóng cùng trông,
Những ngóng cùng trông” tức là suốt ngày chỉ để tâm vào chuyện nhớ thương, đợi chờ, và trách móc. Cuộc sống của những người như vậy sẽ không bao giờ có hạnh phúc. Trong chúng ta, người nào sống trong tâm trạng chờ đợi, khổ đau, than trách nên đọc bài này, và chiêm nghiệm kỹ. Bởi bài thơ này chứa đựng tuệ giác của đạo Bụt.
“Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày.”
Tác giả dùng hình ảnh “suối khô dòng lệ” để chỉ sự héo hắt, sự cạn kiệt, vì chờ đợi quá nhiều, khổ đau quá nhiều. Mong chờ mỏi mòn đến nỗi không còn có thể khóc được nữa. Tác giả lại còn cường điệu thêm nữa.
“Xương mai một nắm hao gầy,”
Nhớ thương, chờ đợi đến nỗi trở thành mình hạc, xương mai. Người ta hay nói, buồn như liễu rũ. Bởi cành lá nó mềm, và rũ xuống như người đứng ủ rũ vậy. Buồn thì héo hon, thì gầy mòn đi, gầy như cây mai vậy. Người Việt Nam thường chơi mai vào dịp tết. Người ta chưng nó giữa nhà, hoặc nơi bàn thờ tổ tiên. Cái đẹp của cây mai là ở thế của nó và hoa của nó. Cành mai, thân mai gầy guộc mới đẹp. Người nào mảnh mai, gọi là mình hạc xương mai. Mình hạc, xương mai là hai hình ảnh đẹp. Nhưng hình ảnh “xương mai một nắm hao gầy” của núi trong bài thơ này cho thấy núi xơ xác quá, xơ xác vì quá nhớ thương.
Xem thêm : Sapiens: Lược sử về loài người
“Xương mai một nắm hao gầy, Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.”
Thường vào buổi tối, những đỉnh núi cao có mây che phủ. Mình có thể nói, ban ngày, mây lang thang dạo chơi khắp bầu trời, tối về, mây lên đỉnh núi ngủ. Do vậy, khi nhìn mây phủ đỉnh núi, thi sĩ nói: “Ôi, tóc bạc rồi, nhớ thương quá tóc bạc rồi”. Khi nhớ thương nhiều, lo lắng nhiều, đầu mình bạc rất mau. Ngày có nhau, mình hạnh phúc, tóc mình xanh mướt. Bây giờ xa nhau, tóc mình trở nên bạc. Bạc tóc vì nhớ thương. Mình hạc, xương mai, tóc bạc là để nói về sự nhớ thương của núi đối với nước.
“Trời Tây ngả bóng tà dương”
Triều dương là ánh sáng buổi sáng, tà dương là ánh sáng buổi chiều. Khi mặt trời đã ngả bóng về phía Tây, ánh sáng vàng vọt phủ lên núi càng làm cho tình trạng của núi trông xác xơ hơn.
“Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng phôi pha.”
Kẻ đợi là núi. Núi có thể là đàn ông, núi có thể là đàn bà. Kẻ đợi có thể là cha, và kẻ ra đi có thể là con; kẻ đợi có thể là mẹ, và kẻ ra đi có thể là con; kẻ đợi có thể là thầy, và người bỏ đi có thể là đệ tử. Tự nhiên, con bỏ thầy ra đi, làm thầy phải thương, phải nhớ, và nếu thầy không thực tập, chắc thầy cũng xương mai một nắm hao gầy như bất cứ ai.
“Trời Tây ngả bóng tà dương, Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha.”
Càng phơi tức là phơi ra rõ hơn, bày ra rõ hơn nét buồn tủi.
“Non cao tuổi vẫn chưa già, Non thời nhớ nước, nước mà quên non.”
Non thời nhớ nước, mà nước nhởn nhơ, chẳng thèm đoái hoài gì đến non.
“Có khi Thầy xuất hiện giữa đường con đi, nhưng mắt con vẫn nhìn Thầy như nhìn một người xa lạ.”
Lời thề non hẹn biển ngày xưa đã bay theo gió mất rồi.
“Nước non nặng một lời thề, Non thời nhớ nước, nước mà quên non.”
Ngày xưa mình nói rằng: “con quỳ xuống, con cầu mong Bụt và đại chúng cho con được xuất gia, cho con được ở luôn, suốt đời. Cúi đầu xuống con nhận cái y này, đời đời nguyện mang theo”. Thế mà mới tu được mấy năm đã bỏ thầy, bỏ chúng mà ra đi.
“Non thời như nước, nước mà quên non.”
Sự than trách, sự sầu muộn được diễn tả qua mười hai câu thơ. Quá nhiều rồi, không thể nào thêm được nữa. Chữ “mà” được dùng rất thường, nhưng trong bài này nó có ý trách móc rất đậm đà, rất hay.
Giữa hai người yêu nhau, giữa cha con, giữa mẹ con, giữa những người bạn, giữa thầy trò, giữa huynh đệ với nhau có thể mở ra một lời thề, như lời thề của non và nước: “dù núi có cạn, sông có mòn, liên hệ của mình vẫn không bao giờ suy chuyển”. Trong bài tựa kinh Lăng Nghiêm có câu: “Thuấn nhã đa tánh khả tiêu vong, thước ca la tâm vô động chuyển”. Thuấn nhã đa tánh tức là: “tính chất của hư không có thể tiêu vong được, nhưng tâm Bồ đề của con sẽ không bao giờ lay chuyển; con sẽ tu hành cho tới khi con thành đạt mới thôi, con sẽ không bỏ Bụt, không bỏ Pháp, không bỏ Tăng”. Hư không hữu tận, ngã nguyện vô cùng có nghĩa là: “hư không kia có thể có được sự chấm dứt của biên giới, nhưng nguyện của con là không có biên giới”.
“Dù cho sông cạn đá mòn, Còn non, còn nước vẫn còn thề xưa.”
Khi anh còn đó, em còn kia, lời thề năm xưa giữa đôi ta vẫn còn giá trị, còn hiệu lực. Nhưng tại sao em nỡ vứt bỏ lời nguyền, đạp lên lời nguyền mà ra đi, mà phụ bạc anh?
Xem thêm : Review Sách: Những bông hoa trên tầng áp mái – Đời về cơ bản là không tin được đứa nào!
Khi nghe những lời tâm sự đau khổ của núi, thi sĩ can thiệp. Tác giả đưa ngón tay lên, và nói:
“Non xanh đã biết hay chưa?”
Thi sĩ gọi tên núi, và nói: “núi xanh ơi, hãy lắng nghe ta nói, đừng ngồi đó mà than phiền nữa”.
“Non xanh đã biết hay chưa? Nước đi ra biển lại mưa về nguồn.”
Nếu quan sát kỹ, mình có thể thấy được người kia sẽ trở về hoặc đã trở về rồi. Do thất niệm, nên mình nghĩ người kia một đi không trở lại, rồi mình sầu, mình khổ, mình than khóc: “nước đi rồi, nước đã bỏ mình, nước sẽ không bao giờ trở lại”. Mình bị kẹt vào hình tướng, nên không thấy nước đã trở về dưới hình thức khác, có thể là đám mây hay cơn mưa.
Nhiều người nói rằng, Thầy Nhất Hạnh đi bốn mươi năm chưa về. Nhưng tôi đã về rồi, về trong những người đệ tử, về qua những cuốn sách, băng giảng. Nếu nói rằng, Thầy Nhất Hạnh chưa về thì còn kẹt vào con mắt hữu tướng. Vậy nên, cần thực tập tam giải thoát môn: không, vô tướng và vô tác, cần áp dụng được nó vào cái nhìn đối với các vấn đề của cuộc sống.
Sau chuyến về Việt Nam, một số bạn hữu ở Hoa Kỳ hay Úc châu có nói rằng: “Tuy hình hài Thầy không có ở Việt Nam, nhưng con thấy sự có mặt của Thầy ở Việt Nam rất rõ ràng, đi ra Trung cũng thấy Thầy, đi ra Bắc cũng thấy Thầy, đi vô Nam cũng thấy Thầy”. Những người bạn ấy có con mắt vô tướng. Họ có thể thấy được những cái ngoài tướng. Trong kinh Kim Cương, có câu: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, tức là nơi nào có hình tướng, nơi đó có sự lường gạt. Thi sĩ đã nhìn vấn đề của núi với con mắt vô tướng: “Núi ơi, núi đừng than khóc! Nước đã trở về rồi, tại sao núi còn than khóc?”
Nếu có người thân qua đời, mình thường nghĩ, họ đã bỏ mình ra đi vĩnh viễn. “Con ơi, sao con bỏ mẹ mà đi? Anh ơi, sao anh bỏ em mà đi, đành đoạn bỏ em mà đi một mình?” Người ở lại thường trách móc người quá cố giống như cách núi trách móc nước vậy. Người ở lại đập ngực, bứt tóc, khóc lăn ra, vì họ còn kẹt vào hình tướng. Nếu biết nhìn kỹ, mình có thể thấy được những người thân đã quá cố của mình đang ở trong mỗi tế của mình. Mình có thể nói: “ba ơi, con biết là ba đang có mặt trong con, và con đang mỉm cười với ba đây này”. Nếu biết nhìn với con mắt vô tướng, mình không còn cảm thấy xa cách với những người đã khuất, mình không còn cảm thấy sầu khổ nữa. Do vậy, người nào mới vừa mất người thương, muốn bớt sầu khổ, phải theo lời khai thị này của tác giả, phải nhìn để thấy rằng không có gì đi, không có gì mất, vô khứ, vô lai, và cái mình tưởng đã mất, kỳ thực nó đang còn ở trong mình.
“Nước non hội ngộ còn luôn, Bảo cho non chớ có buồn làm chi.”
Buồn là kết quả của vô minh. Bởi mình nghĩ, giữa mình và người ra đi có sự xa cách, vĩnh viễn xa cách, nhưng kỳ thực không có gì tới, không có gì đi.
“Nước non hội ngộ còn luôn, Bảo cho non chớ có buồn làm chi.”
Câu này chứa đựng tuệ giác của đạo Bụt.
“Nước kia dù hãy còn đi, Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui.”
Nơi sườn núi có ngàn dâu mọc xanh tốt. Nếu không có nước liệu dâu có mọc tốt tươi được không? Mình tìm nước ở đâu? Nhìn dâu xanh tốt mọc bên sườn núi, mình có thể thấy được nước đang còn ở đây, đang còn ở với mình. Nếu nước không có ở đây, ngàn dâu sao có thể mọc tốt tươi được. Nước vẫn còn đây, sao núi lại trách móc?
“Nước kia dù hãy còn đi,”
Trên phương diện hình thức, nước đang đi, đang còn đi mãi. Nhưng trên phương diện nội dung, nước đã về rồi. Ngày hôm qua, thấy nước chảy đi, mình nghĩ, nước đã ra đi. Nhưng thực tế, nước có thể đã trở thành mây đang bay trên đầu chúng ta, nước có thể trở thành mưa đang rơi xuống xung quanh chúng ta, nước đang luân chuyển trong ngàn cây nội cỏ tốt tươi.
“Ngàn dâu xanh tốt, non thì cứ vui.”
Và đây là câu kết luận:
“Nghìn năm giao ước kết đôi, Non non nước nước không nguôi lờ
Nguồn: https://reviewsach.info/
Danh mục: Reviews