“Văn chiêu hồn” và “phản chiêu hồn”

thumbnail
Rate this post

Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820) là một vị danh nhân văn hóa thế giới, người có lòng yêu thương con người sâu sắc. Trong các sáng tác của ông, “Truyện Kiều” là tác phẩm thể hiện chủ nghĩa nhân đạo một cách tuyệt vời.

Cùng với “Truyện Kiều”, “Văn tế thập loại chúng sinh” (hay còn được gọi là “Văn chiêu hồn”) cũng là một tác phẩm văn nôm tuyệt vời, có tính chất tư tưởng và nghệ thuật cao. Trong “Văn chiêu hồn”, nhà thơ Chế Lan Viên đã đề cập đến nỗi đau mất nước, nỗi buồn của cha ông trước đây. Bài thơ này đã thu hút sự chú ý và thấm thía lòng người:

Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời,
Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa,
Những pho tượng chùa Tây Phương không biết cách trả lời,
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ,
“Văn chiêu hồn” từng thấm hạt mưa rơi,
(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?)

“Văn chiêu hồn” là một bài văn tế dài 184 câu, theo đoạn thất lục bát, mang tính chiêu hồn thập loại chúng sinh, được viết về nơi tây phương cực lạc trong ngày tết xá tội vong nhân rằm tháng Bảy âm lịch. Trong bài văn tế này, Nguyễn Du thể hiện tấm lòng nhân đạo của mình khi miêu tả cả mười loại người được chiêu hồn. Đây là một tác phẩm độc đáo, hoàn hảo với đề tài này trong lịch sử văn chương dân tộc. Bắt đầu bằng cách miêu tả không gian buồn ảm đạm của ngày tết:

Tiết tháng Bảy mưa rầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô;
Não người thay, buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc, lá khô rụng vàng.
Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Ngọn đường lê lác đác sương sa,
Lòng nào lòng chẳng thiết tha,
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Có khôn thiêng phảng phất u minh,
Thương thay thập loại chúng sinh,
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người…

Trong mỗi thập loại chúng sinh, Nguyễn Du đều cảm thông cho thân phận của họ, từ những người giàu sang đến những người nghèo khổ. Ngòi bút của Nguyễn Du đặc biệt xúc động khi đề cập đến những kiếp người nghèo khổ. Điều này thấm sâu vào tâm hồn của nhà thơ và điều hòa hợp trong trái tim ta khi so sánh những kiếp người đó với thân phận của con người trong “Truyện Kiều”. Có những người lao động vất vả:

Cũng có kẻ đi về buôn bán,
Đòn gánh tre chín rạn hai vai,
Gặp cơn mưa nắng giữa trời,
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nào?

Còn người lính, Đoàn Thị Điểm đã thành công trong việc thể hiện trong kiệt tác “Chinh phụ ngâm”. Ở đây, Nguyễn Du cũng có những câu thơ đặc biệt:

Cũng có kẻ mắc vào khóa lính,
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,
Nước khe cơm ống gian nan,
Dãi dầu nghìn dặm, lầm than một đời.
Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành đạn lạc tên rơi.
Lập lòe ngọn lửa ma trơi,
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương…

Đặc biệt, khi nói về thân phận của người kỹ nữ, Nguyễn Du cảm thấy xót xa cho họ và cũng xót xa cho chính số phận của mình. Trong các bài thơ như “Độc Tiểu Thanh ký”, “Long thành cầm giả ca”, “Thái Bình mại ca giả” hoặc khi để nàng Kiều khóc trước mộ Đạm Tiên, Nguyễn Du đã để lại những câu thơ để đời:

Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,
Ngẩn ngơ khi trở về già,
Ai chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não,
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu?

Chúng ta đều biết câu thơ nổi tiếng trong “Truyện Kiều”: “Đau đớn thay phận đàn bà – Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Thông thường, việc lặp lại một câu thơ là điều tối kị. Nhưng trong trường hợp này, Nguyễn Du đã lặp lại câu thơ đó hoàn toàn, nhưng không có ai nghĩ đến việc lặp lại mà chỉ thấy đó là viên ngọc mới. Viên ngọc mới này tôn thêm sự sáng chói của viên ngọc cũ. Điều này chỉ có thể đạt được nhờ tấm lòng yêu thương con người của nhà thơ.


Tuy nhiên, Nguyễn Du đã viết bài thơ “Phản chiêu hồn” (chống lại việc chiêu hồn) trong một chuyến đi sứ Trung Quốc năm 1813 khi ngang qua sông Mịch La. Lý do là Tống Ngọc, người cùng thời với Khuất Nguyên, đã làm bài từ chiêu hồn gọi Khuất Nguyên về để sống thêm trên cõi đời trần thế. Nguyễn Du đã chống lại ý này và khuyên hồn không nên trở về với cõi trần đầy những bọn quan lại gian ác.

Theo nhà thơ Trung Quốc Quách Mạt Nhược, Khuất Nguyên sinh năm 340 và mất năm 278 trước Công nguyên, trong thời Chiến quốc. Ông là người nước Sở, thuộc tỉnh Hồ Bắc ngày nay.

Khuất Nguyên có kiến thức uyên bác và chú trọng tới tu dưỡng phẩm chất, đạo đức, và có hoài bão chính trị. Ông muốn sử dụng tài năng để phụng sự cho tổ quốc, để nước Sở trở nên giàu mạnh. Xuất thân trong một gia đình quý tộc và cùng họ với vua Sở, khi ông hai mươi tuổi, ông được bổ nhiệm làm tả đồ (chức vị thấp hơn Tể tướng một bậc).

Ban đầu, nước Sở đang cường thịnh và Sở Hoài Vương được cử làm lãnh tụ của liên minh sáu nước chống Tần (bao gồm Sở, Tề, Ngụy, Triệu, Hàn, Yên). Nhưng Khuất Nguyên bị những bọn gian thần hãm hại. Khi Khoảng Tương Vương lên làm vua, ông buộc phải rời đi.

Năm 278 trước Công nguyên, trong bối cảnh nước Sở yếu đuối, vua vô độ, không quan tâm đến triều chính, mà chỉ lo lợi ích cá nhân và hãm hại những người tài trung thần, nước Sở đã bị nước Tần thôn tính.

Trước tình hình mất nước và sụp đổ, Khuất Nguyên đau đớn đến mức tự nhảy xuống sông Mịch La (tỉnh Hà Nam) tự tử vào ngày 5 tháng 5 âm lịch. Trước đó, ông đã viết bài thơ “Ly tao” để thể hiện ý chí và hoài bão của mình. “Ly tao” dài 373 câu, là bài thơ trữ tình dài đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, đồng thời đạt đến đỉnh cao nhất của thơ ca Khuất Nguyên và đã biến ông thành một nhà thơ vĩ đại, một danh nhân văn hóa của nhân loại.

Bài thơ “Phản chiêu hồn” của Nguyễn Du như sau (dịch):

Hồn ơi! Hồn ơi! Sao không về?
Đông, Tây, Nam, Bắc không có nơi nào nương tựa đâu!
Lên trời, xuống đất đều không được,
Về đất Yên đất Dĩnh mà làm gì?
Thành quách vẫn như cũ, nhưng nhân dân đã khác rồi,
Bụi bay mù mịt bẩn cả quần áo.
Họ đi ra ngựa ngựa xe xe, họ ở nhà vênh vênh váo váo,
Đứng ngồi bàn tán tựa như ông Cao, ông Quỳ.
Hồn không thấy mấy trăm châu ở Hồ Nam đó sao?
Chỉ có những người gầy gò, không ai béo tốt.
Hồn ơi! Hồn ơi! Nếu theo đường đó,
Thì sau Tam Hoàng, không còn hợp thời nữa.
Hãy sớm thu tinh thần về với thái hư,
Đừng trở lại đây mà người ta mai mỉa.
Đời sau ai ai cũng đều là Thượng quan,
Mặt đất đâu đâu cũng là sông Mịch La.
Cá rồng không ăn, hùm sói cũng ăn,
Hồn ơi! Hồn ơi! Hồn làm thế nào?

Bài thơ “Phản chiêu hồn” là một tác phẩm có tứ độc đặc biệt, không có trong truyền thống văn học. Thường thì người ta làm văn cúng tế để gọi hồn về, nhưng Nguyễn Du đã viết thành bài thơ để hồn không về. Và ý kiến đó của Nguyễn Du đã chính xác. Sự lưu truyền của bài thơ qua nhiều thế kỷ đã chứng minh giá trị tư tưởng và nghệ thuật của nó. Bài thơ có giá trị hiện thực và nhân đạo cao.

Nguyễn Du cảm thông với Khuất Nguyên vì cả hai đều gặp những hoàn cảnh bất hạnh. Sự suy tàn của thời đại Khuất Nguyên và sự sa sút của chế độ phong kiến cuối thế kỷ XVIII thời Nguyễn Du có nhiều điểm tương đồng. Điều này là sự đồng tình tâm hồn giữa hai nhà thơ lớn, mặc dù cách nhau hai ngàn năm. Chỉ có thiên tài Nguyễn Du mới có thể viết nên bài thơ có giá trị hiện thực và nhân đạo như “Phản chiêu hồn”.

Dù là “Văn chiêu hồn” hay “Phản chiêu hồn”, cả hai bài thơ đều thể hiện tình yêu thương sâu sắc và rộng lớn của đại thi hào Nguyễn Du dành cho con người. Hai bài thơ này đều là những kiệt tác trong kho tàng văn hóa dân tộc.